http://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/issue/feedVNU Journal of Social Sciences and Humanities2024-02-19T15:42:25+07:00Tran Xuan Hungtranxuanhungdhv@gmail.comOpen Journal Systems<p>VNU Journal of Social Sciences and Humanities (ISSN 2354-1172) is a double-blind peer-reviewed journal published by University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Hanoi, Vietnam, under the publication permit no. 155/GP-BTTTT, issued on 11<sup>th </sup>May, 2015 by Ministry of Information and Communications. The journal publishes four Vietnamese issues and two English issues per year.</p><p>Currently, there are 35 reputable professors in the editorial board. The main objectives of the journal include: providing an intellectual platform for Vietnamese and international scholars; promoting interdisciplinary studies in social sciences and humanities; becoming the leading journal in social sciences and humanities in Vietnam; being indexed by worldwide databases and having academic recognition internationally in the near future.</p><p>The journal is currently indexed by Google Scholar, WorldCat, Open Archives, Cosmos Impact Factor, Advanced Sciences Index, Scientific Indexing Services, CrossRef, EBSCO Information Services and Vietnam National University’s digital archive.</p><p><strong>Journal of Social Sciences and Humanities-Vietnam</strong><br /><strong>ISSN 2354-1172, email: <strong><span style="text-decoration: underline;">tapchikhxhnv@gmail.com, tckhxhnv@vnu.edu.vn</span></strong></strong></p><p>--------------------------------------------------</p><p><strong>Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn</strong></p><p>Được thành lập ngày 31/8/2015 (giấy phép hoạt động số 155/GP-BVHTT ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ Thông tin và Truyền thông, mã số tiêu chuẩn quốc tế ISSN 2354-1172), Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (Journal of Social Sciences and Humanities) là ấn phẩm khoa học chính thức, duy nhất của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, phát triển và kế thừa Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tạp chí Khoa học, ĐHQG Hà Nội.</p><p>Tạp chí xuất bản định kỳ (04 số tiếng Việt/năm và 02 số tiếng Anh/năm), có nhiệm vụ <em>công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học khoa học xã hội và nhân văn của các tác giả là các nhà khoa học trong và ngoài nước, phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học</em>. Hội đồng biên tập của Tạp chí hiện bao gồm 33 nhà khoa học có uy tín trong nước và quốc tế. Tạp chí tập trung và ưu tiên đăng tải những bài báo theo định hướng của tinh thần cởi mở, sáng tạo, nhanh chóng vươn lên để tiếp cận và sánh ngang với các tạp chí có uy tín hàng đầu của khu vực và trên thế giới. Nội dung chính của Tạp chí bao gồm các Bài nghiên cứu (khoảng 6000 đến 15000 từ), các bài điểm sách, thông tin khoa học (khoảng 300 đến 1500 từ) được trình bày theo đúng cấu trúc và chuẩn mực của một tạp chí khoa học.</p><p>Các bài viết của Tạp chí hiện đang được trích dẫn bởi Google Scholar, WorldCat, Open Archives, Cosmos Impact Factor, Advanced Sciences Index, Scientific Indexing Services, CrossRef, EBSCO Information Services.</p><p><span>Mọi thông tin xin liên hệ: </span><em>Phòng Tạp chí, 701 - E, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. ĐT: 024.35581984; email: <span style="text-decoration: underline;">tckhxhnv@vnu.edu.vn </span></em><span>hoặc </span><em><span style="text-decoration: underline;">tapchikhxhnv@gmail.com </span></em></p>http://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/617523 lần giao lưu, tiếp xúc của sứ thần Đại Việt và Triều Tiên tại Trung Quốc2024-02-19T15:41:47+07:00Hoàng Thị Yếnhtyen@cmc-u.edu.vnNguyễn Thị Nguyệt Minhtapchikhxhnv@gmail.com<p class="tomtattiengviet">Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (phân tích tài liệu) nhằm xác định rõ số lần tiếp xúc, giao lưu giữa các sứ thần Đại Việt và Triều Tiên tại Trung Quốc (từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XX). Bài viết đã phân tích và tổng hợp được thông tin về 23 đoàn sứ với 73 thành viên cùng các mốc thời gian tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, có một số cứ liệu liên quan các nhà nghiên cứu đưa ra có đôi chỗ chưa rõ ràng và thống nhất. Cụ thể là: i) Có 6 đoàn sứ Triều Tiên không xác định được số lượng và danh tính cụ thể của các thành viên; ii) Tồn tại sự thiếu nhất quán trong số lần các đoàn sứ thần tiếp xúc và giao lưu; iii) Có sự thiếu chính xác và không đồng nhất trong việc phiên âm và ghi tên các thành viên đoàn sứ; iv) Thời điểm đi sứ của một số đoàn ít nhiều có sự khác biệt. Vì vậy, trong tương lai cần có thêm các nghiên cứu tiếp cận với phạm vi rộng và sâu hơn về nội dung và ý nghĩa của các cuộc tiếp xúc giữa sứ thần các nước.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 30/12/2022; ngày chỉnh sửa 06/4/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:41:47+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6176Xu hướng hội nhập tam giáo thời Lý - Trần2024-02-19T15:41:52+07:00Nguyễn Thị Nhưnguyenyennhu84@gmail.com<p class="tomtattiengviet">Trong lịch sử Việt Nam, đã có ba lần diễn ra sự hội nhập giữa Nho - Phật - Đạo, lần thứ nhất xảy ra vào khoảng thế kỷ II - III, lần thứ hai diễn ra vào thời Lý - Trần, lần thứ ba xảy ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Vị trí, vai trò của mỗi học thuyết trong mối quan hệ tam giáo không chỉ có sự khác biệt giữa thời Lý - Trần với các thời đại khác, mà còn thể hiện sự khác biệt ở các giai đoạn phát triển dưới thời Lý - Trần. Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích nguồn gốc của chủ trương hội nhập tam giáo và biểu hiện của sự hội nhập ấy, không chỉ ở sự cùng tồn tại, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau giữa các dòng tư tưởng, mà còn ở sự biến thiên về vai trò của Nho giáo và Phật giáo trong mối quan hệ tam giáo thời Lý - Trần, thể hiện ở sự gia tăng vị thế của tầng lớp nho sĩ so với tầng lớp tăng lữ dưới các triều đại này.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 24/5/2023; ngày chỉnh sửa 14/7/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:41:52+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6177Làng Cầu Đơ: Từ tỉnh lỵ Hà Nội đến thủ phủ của tỉnh Cầu Đơ và tỉnh Hà Đông2024-02-19T15:41:57+07:00Nguyễn Hữu Sơnsonanhien@gmail.com<p class="tomtattiengviet">Năm 1831, nhà Nguyễn thành lập tỉnh Hà Nội, đặt trụ sở tỉnh tại thành Thăng Long. Năm 1888, Pháp tách một phần tỉnh Hà Nội để lập thành phố Hà Nội. Vì vậy, tỉnh lỵ Hà Nội được di dời về làng Cầu Đơ, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa. Cũng vì thế, tên tỉnh Hà Nội được đổi thành tỉnh Cầu Đơ (1902), rồi tỉnh Hà Đông (1904). Sau khi thành tỉnh lỵ, vùng đất Cầu Đơ được người Pháp xây dựng theo mô hình thành phố Hà Nội thu nhỏ, mà khi đó Hà Nội đang được kiến thiết theo kiểu đô thị phương Tây. Sau 112 năm (1896-2008) giữ vai trò tỉnh lỵ, vùng Cầu Đơ từ đô thị loại III trở thành một phần của đô thị đặc biệt.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 13/6/2023; ngày chỉnh sửa 14/9/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:41:57+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6178Sự thích ứng của cư dân các khu tập thể cũ ở Hà Nội trong việc tham gia vào nền kinh tế thị trường giai đoạn đầu sau Đổi mới2024-02-19T15:42:01+07:00Nguyễn Giáonguyengiao76@gmail.com<p class="tomtattiengviet">Nhà tập thể là một trong những “công thức nhào nặn lại ý thức xã hội”, như cách nói của học giả Nga Azarova (2001), trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam. Đến giai đoạn sau năm 1986, Đổi mới mang theo tinh thần của kinh tế thị trường vào khu tập thể, tạo thành một bức tranh với sự đan xen của nhiều mảng màu. Trong bối cảnh đó, đáng chú ý là những ràng buộc của các quan điểm trong quá khứ cũng như sự thiếu hụt các loại vốn đã làm giảm thiểu cơ hội của cư dân của các khu tập thể cũ trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường nhằm cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, tính năng động của một bộ phận cư dân ở các khu tập thể trong quá trình chuyển đổi đã giúp họ thích ứng với sức ép “đạo đức” của các quan điểm cũ để thỏa mãn được nhu cầu về đa dạng sinh kế. Bài viết tập trung phân tích sự thích ứng này của một bộ phận cư dân các khu tập thể cũ, những người chịu ảnh hưởng mạnh bởi thành phần xuất thân, nhằm hòa vào nền kinh tế thị trường theo cách riêng. Quá trình thích ứng ấy cũng cho thấy sự vận động về tư tưởng diễn ra trong các khu tập thể cũ - nơi một thời vốn được coi là biểu tượng của xã hội xã hội chủ nghĩa - trong giai đoạn chuyển đổi.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 14/7/2023; ngày chỉnh sửa 18/12/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:42:01+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6179Tạo động lực làm việc cho giảng viên thông qua tiền lương, thưởng, phúc lợi trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học tại các trường đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh2024-02-19T15:42:07+07:00Nguyễn Đức Kim Ngânnganndk.spas@gmail.com<div class="WordSection1"><p class="tomtattiengviet">Tiền lương, thưởng, phúc lợi có vai trò quan trọng đối với giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học, là phương thức hữu hiệu để tạo động lực làm việc cho giảng viên thông qua tác động trực tiếp đến tâm lý và kết quả công việc của giảng viên, giúp họ hài lòng với công việc, yên tâm công tác và sẵn sàng cống hiến cho nhà trường. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng động lực làm việc của giảng viên thông qua chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi bằng việc khảo sát 135 giảng viên từ các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quy định về chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi dành cho giảng viên, tuy nhiên phương thức này vẫn chưa thực sự tạo ra động lực làm việc cho giảng viên. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp để tạo động lực làm việc cho giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận:05/9/2023; ngày chỉnh sửa: 28/11/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p><p class="ngaynhanbai"> </p></div><em><br clear="all" /> </em>2024-02-19T15:42:07+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6180Dạy đọc văn bản Tuổi thơ tôi của Nguyễn Nhật Ánh (Ngữ văn 6, bộ sách Chân trời sáng tạo) từ hướng tiếp cận thi pháp thể loại2024-02-19T15:42:13+07:00Lê Ngọc Phương Trinhtapchikhxhnv@gmail.comNguyễn Thị Kim Tiếntienntk@tdmu.edu.vn<p class="tomtattiengviet">Thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục trong nhà trường, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 hướng đến mục tiêu giúp học sinh chủ động và khai thác năng lực của bản thân, tạo ra những chân trời tri nhận mới. Để định hướng và phát triển năng lực cho học sinh, trong đó có năng lực đọc, giáo viên xác định hoạt động đọc hiểu là cấp độ quan trọng trong quá trình dạy văn bản văn học, đặc biệt đối với đối tượng học sinh cấp trung học cơ sở. Tiếp cận thi pháp học cụ thể là thi pháp thể loại trong dạy đọc hiểu là cách thức tổ chức dạy học phù hợp, trong đó, lấy hình thức nghệ thuật của tác phẩm làm trung tâm để giải mã và tìm ra tính nội dung của văn bản. Xuất phát từ mục tiêu dạy bài đọc <em>Tuổi thơ tôi<strong> </strong></em>(Ngữ văn 6, tập 2, bộ <em>Chân trời sáng tạo</em>) của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ở bài viết này, chúng tôi tiến hành tiếp cận lý thuyết thi pháp theo thể loại tự sự khi dạy học đọc - hiểu văn bản này qua cách thức xây dựng nhân vật và ngôn ngữ kể chuyện. Qua đó, học sinh được tiếp cận và tham gia các hoạt động mang tính chủ động, phát huy năng lực đọc, tích cực hoá hoạt động học tập trong việc tiếp nhận văn bản văn học.<strong></strong></p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 30/6/2023; ngày chỉnh sửa 11/9/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:42:13+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanitieshttp://journal.ussh.vnu.edu.vn/index.php/vjossh/article/view/6181Chiến lược học tập từ vựng tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Trường hợp sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh2024-02-19T15:42:20+07:00Lưu Hớn Vũluuhonvu@gmail.com<p class="tomtattiengviet">Bài viết sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, khảo sát tình hình sử dụng chiến lược học tập từ vựng của 211 sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức thường xuyên hơn nhóm chiến lược siêu nhận thức. Khi gặp từ mới, sinh viên thường có khuynh hướng tra từ điển để hiểu nghĩa của từ đó, việc dự đoán nghĩa của sinh viên chủ yếu dựa vào ngữ cảnh và kiến thức nền. Sinh viên ghi chú cả nghĩa và cách dùng của từ, tiến hành ghi nhớ từ chủ yếu bằng cách lặp đi lặp lại một cách máy móc. Nhân tố giới tính có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược lập kế hoạch trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Nhân tố vùng miền có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược chú ý có chọn lọc trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra một số kiến nghị cho việc giảng dạy từ vựng tiếng Trung Quốc.</p><p class="ngaynhanbai">Ngày nhận 19/6/2023; ngày chỉnh sửa 05/9/2023; ngày chấp nhận đăng 30/12/2023</p>2024-02-19T15:42:20+07:00Copyright (c) 2024 VNU Journal of Social Sciences and Humanities